Quả thực mà nói, hệ điều hành Windows đã có một lịch
sử phát triển khá dài, phiên bản đầu tiên của hệ điều hành này đã được
phát hành cách đây khoảng 25 năm và quãng thời gian mà Windows chiếm
được ưu thế đối với các máy tính cá nhân cũng vào khoảng trên 15 năm.
Rõ ràng, qua rất nhiều thay đổi về kỹ thuật trong 25 năm qua, phiên bản
ngày nay của Windows đã được phát triển hơn rất nhiều so với phiên bản
Windows 1.0.
Phiên bản đầu tiên của Windows này (Windows 1.0) khá
sơ đẳng. Sơ đẳng hơn cả hệ điều hành DOS trước đó, tuy nhiên nhược điểm
phát sinh là ở chỗ rất khó sử dụng. Vì thực tế khi đó nếu bạn không có
chuột thì việc sử dụng sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với giao diện dòng
lệnh của DOS.
Tuy nhiên Windows được phát triển ngày một tốt hơn
và cũng được phổ biến rộng rãi hơn. Microsoft đã nâng cấp Windows trên
một cơ sở nhất quán qua hai thập kỷ qua. Phát hành một phiên bản
Windows mới sau một vài năm; đôi khi phiên bản mới chỉ là một nâng cấp
nhỏ nhưng đôi khi lại là quá trình đại tu toàn bộ.
Cho ví dụ, Windows 95 (phát hành năm 1995), phiên
bản được viết lại toàn bộ từ Windows 3.X trước đó nhưng trong khi đó
phiên bản kế tiếp, Windows 98, lại là một nâng cấp và phiên bản Windows
98 thứ hai (năm 1999) thực sự không khác gì một bản vá lỗi nhỏ.
Vậy phiên bản Windows 7 sắp ra nằm ở đâu trong
timeline này? Windows Vista, phiên bản trước đó, là một sự đại tu triệt
để đối với hệ điều hành này thì Win7 cũng có vẻ giống như Windows 98 –
một nâng cấp bổ sung thứ thiệt.
Đó là việc dõi theo lịch sử phát triển của Windows,
rõ ràng, các nâng cấp thứ yếu thường được phát hành sau những nâng cấp
chủ đạo. Ở đây Vista là chủ đạo, Windows 7 là thứ yếu, và đó cũng chính
là chu trình phát triển hệ điều hành của Microsoft.
Với những giới thiệu tổng quan trên, chúng ta hãy
xem xét chi tiết hơn về mỗi một phiên bản liên tiếp của Windows – bắt
đầu với hình thức sơ khai nhất của nó, hệ điều hành được biết đến với
tên DOS.
DOS
Windows được phát triển từ hệ điều hành DOS ban đầu
của Microsoft, đây là hệ điều hành được phát hành năm 1981. Hệ điều
hành mới này đã được Bill Gates và Paul Allen phát triển để chạy trên
máy tính cá nhân IBM, với giao diện hoàn toàn bằng văn bản và các lệnh
người dùng giản đơn.
Hình 1: Hệ điều hành đầu tiên của Microsoft - PC-DOS 1.0
Những cải tiến tiếp tục được thực hiện, IBM đã liên
hệ với công ty Microsoft để cung cấp hệ điều hành cho các máy tính IBM
vào thời điểm ban đầu này. Khi đó Gates và Allen đã mua QDOS (quick and dirty operating system) từ Seattle Computer Products và đã điều chỉnh những cần thiết cho hệ thống máy tính mới.
Hệ điều khi đó được gọi là DOS, viết tắt cho cụm từ disk operating system.
DOS là một tên chung cho hai hệ điều hành khác nhau. Khi được đóng gói
với các máy tính cá nhân IBM, DOS được gọi là PC DOS. Còn khi được bán
dưới dạng một gói riêng bởi Microsoft, DOS được gọi là MS-DOS. Tuy
nhiên cả hai phiên bản đều có chức năng tương tự nhau.
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học
để điều hành máy tính của họ bằng DOS. Nhưng hệ điều hành này không
thân thiện một chút nào; nó yêu cầu người dùng phải nhớ tất cả các lệnh
và sử dụng các lệnh đó để thực hiện hầu hết các hoạt động hàng ngày,
chẳng hạn như việc copy các file, thay đổi thư mục,… Ưu điểm chính của
DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ, đây là hai vấn đề quan trọng khi
hầu hết các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
Windows 1.0
Microsoft tin rằng các máy tính các nhân sẽ trở
thành xu thế chủ đạo, chúng phải dễ dàng hơn trong sử dụng, bảo vệ cho
sự tin tưởng đó chính là giao diện đồ họa người dùng (GUI) thay cho
giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan điểm đó, Microsoft đã bắt tay vào
thực hiện phiên bản mở đầu của Windows vào năm 1983, và sản phẩm cuối
cùng được phát hành ra thị trường vào tháng 11 năm 1985.
Hình 2: Phiên bản đầu tiên của Windows - Windows 1.0
Windows ban đầu được gọi là Interface Manager,
và không có gì ngoài một lớp vỏ đồ họa đặt trên hệ điều hành DOS đang
tồn tại. Trong khi DOS chỉ là một hệ điều hành sử dụng các lệnh bằng
văn bản và gắn chặt với bàn phím thì Windows 1.0 đã hỗ trợ hoạt động
kích vào thả của chuột. Tuy nhiên các cửa sổ trong giao diện hoàn toàn
cứng nhắc và không mang tính xếp chồng.
Không giống các hệ điều hành sau này, phiên bản đầu
tiên của Windows này chỉ có một vài tiện ích sơ đẳng. Nó chỉ có chương
trình đồ họa Windows Paint, bộ soạn thảo văn bản Windows Write, bộ lịch
biểu, notepad và một đồng hồ. Tuy nhiên thời đó Windows 1.0 cũng có
Control Panel, đây là thành phần được sử dụng để cấu hình các tính năng
khác cho môi trường, và MS-DOS Executive - kẻ tiền nhiệm cho bộ quản lý
file Windows Explorer ngày nay.
Không hề ngạc nhiên vì Windows 1.0 không thành công
như mong đợi. Do lúc đó không có nhiều nhu cầu cho một giao diện đồ họa
người dùng cho các ứng dụng văn bản cho các máy tính PC của IBM và đây
cũng là phiên bản Windows đầu tiên yêu cầu nhiều công xuất hơn các máy
tính vào thời đại đó.
Windows 2.0
Phiên bản thứ hai của Windows được phát hành vào năm
1987, đây là phiên bản được cải tiến dựa trên phiên bản Windows 1.0.
Phiên bản mới này đã bổ sung thêm các cửa sổ có khả năng xếp chồng nhau
và cho phép tối thiểu hóa các cửa sổ để chuyển qua lại trong desktop
bằng chuột.
Hình 3: Các cửa sổ xếp chồng của Windows 2.0
Trong phiên bản này, Windows 2.0 đã có trong nó các
ứng dụng Word và Excel của Microsoft. Lúc này Word và Excel là các ứng
dụng đồ họa cạnh tranh với các đối thủ khi đó WordPerfect và Lotus
1-2-3; các ứng dụng của Microsoft cần một giao diện đồ họa để có thể
chạy hợp thức, do đó Microsoft đã tích hợp chúng vào với Windows.
Lúc này không có nhiều ứng dụng tương thích với Windows. Chỉ có một ngoại lệ đáng lưu ý đó là chương trình Aldus PageMaker.
Windows 3.0
Lần thứ ba có tiến bộ hơn các phiên bản trước rất
nhiều và đánh dấu một mốc quan trọng trong thương mại. Windows 3.0,
phát hành năm 1990, là phiên bản thương mại thành công đầu tiên của hệ
điều hành, Microsoft đã bán được khoảng 10 triệu copy trong hai năm
trước khi nâng cấp lên 3.1. Đây là phiên bản hệ điều hành đa nhiệm đích
thực đầu tiên. Sau sự thành công với Macintosh của Apple, thế giới máy
tính cá nhân đã sẵn sàng cho một hệ điều hành đa nhiệm cùng với giao
diện đồ họa người dùng.
Hình 4: Phiên bản Windows 3.0
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với các phiên
bản trước đây. Giao diện của nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và người
dùng có thể thay đổi màu của desktop (tuy nhiên thời điểm này chưa có
các ảnh nền - wallpaper). Các chương trình được khởi chạy thông qua
chương trình Program Manager mới, và chương trình File Manager mới đã
thay thế cho chương trình MS-DOS Executive cũ trong vấn đề quản lý
file. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có trò chơi Solitaire
trong đó. Một điều quan trọng nữa là Windows 3.0 có một chế độ
Protected/Enhanced cho phép các ứng dụng Windows nguyên bản có thể sử
dụng bộ nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS của nó.
Sau phát hành Windows 3.0, các ứng dụng được viết
cho Windows được phát triển rất rộng rãi trong khi đó các ứng dụng
không cho Windows (non-Windows) thì ngược lại. Windows 3.0 đã làm cho
các ứng dụng Word và Excel đã đánh bại các đối thủ cạnh tranh khác như
WordPerfect, 1-2-3.
Windows 3.1
Windows 3.1, phát hành năm 1992, có thể coi là một
nâng cấp cho phiên bản 3.0. Phiên bản này không chỉ có các bản vá lỗi
cần thiết mà nó còn là phiên bản đầu tiên mà Windows hiển thị các font
TrueType –làm cho Windows trở thành một nền tảng quan trọng cho các máy
desktop. Một điểm mới nữa trong Windows 3.1 là bộ bảo vệ màn hình
(screensaver) và hoạt động kéo và thả.
Hình 5: Các font TrueType của Windows 3.1
Windows cho các nhóm làm việc (Workgroup)
Cũng được phát hành vào năm 1992, Windows cho các
nhóm làm việc (viết tắt là WFW), là phiên bản dùng để kết nối đầu tiên
của Windows. Ban đầu được phát triển như một add-on của Windows 3.0,
tuy nhiên WFW đã bổ sung thêm các driver và các giao thức cần thiết
(TCP/IP) cho việc kết nối mạng ngang hàng. Đây chính là phiên bản WFW
của Windows thích hợp với môi trường công ty.
Hình 6: Windows cho các nhóm làm việc – phiên bản kết nối đầu tiên của Windows
Với WFW, các phát hành của Windows được chia thành
hai hướng: hướng dành cho khách hàng, được thiết kế dành cho sử dụng
trên các máy tính PC riêng lẻ, hiện thân là Windows 3.1 và Windows 95
sắp ra đời, và một hướng là dành cho khối doanh nghiệp, được thiết kế
để sử dụng trên các máy tính có kết nối mạng, hiện thân là WFW và
Windows NT sắp ra đời.
Windows NT
Phát hành kế tiếp cho khối doanh nghiệp của Windows là Windows NT (từ NT là viết tắt của cụm từ new technology),
phiên bản chính thức được phát hành vào năm 1993. Mặc dù vậy NT không
phải là một nâng cấp đơn giản cho WFW mà thay vì đó nó là một hệ điều
hành 32-bit đúng nghĩa được thiết kế cho các tổ chức có kết nối mạng.
(Các phiên bản khách hàng vẫn được duy trì ở các hệ điều hành 16-bit).
Hình 7: Windows NT – phiên bản Windows 32-bit đầu tiên dành cho sử dụng trong khối doanh nghiệp
Windows NT cũng là một thành viên trong hợp tác phát
triển hệ điều hành OS/2 của Microsoft với IBM. Tuy nhiên khi mối quan
hệ giữa IBM và Microsoft bị đổ vỡ, IBM vẫn tiếp tục với OS/2, trong khi
đó Microsoft đã thay đổi tên phiên bản của OS/2 thành Windows NT.
Phục vụ cho khách hàng doanh nghiệp, Windows NT đã
có hai phiên bản: Workstation và Server. NT Workstation được dành cho
các PC riêng rẽ trên mạng công ty, còn NT Server có nhiệm vụ máy chủ
cho tất cả các PC được kết nối với nhau.
Với những khả năng cải thiện về công nghệ kết nối
mạng, NT đã trở thành một hệ điều hành chủ đạo cho các máy chủ và máy
trạm doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nó cũng là cơ sở cho hệ điều hành
Windows XP, hệ điều hành sát nhập hai luồng Windows thành một hệ điều
hành chung vào năm 2001.
Windows 95
Quay trở lại với hướng khách hàng, Microsoft đã sẵn
sàng một phát hành mới vào tháng 8 năm 1995. Phiên bản Windows 95 này
có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành Windows.
Hình 8: Windows 95 – phát hành Windows lớn nhất chưa từng có
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm,
nhưng phát hành Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc
đưa tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, các khách hàng
đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các cửa hàng từ nửa đêm để mua
được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows
95 có diện mạo đẹp hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó
đều đạt được mong mỏi của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một
hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã cải thiện được giao diện
người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo. (Nhân kernel
16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có
các nút cho các cửa sổ mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có
sử dụng nút Start và menu Start; các shortcut trên desktop, kích phải
chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản
này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù không có
trong phiên bản ban đầu – đó là trình duyệt web Internet Explorer của
Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất hiện là trong Windows 95 Plus! Với
tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong Win95 Service Pack 1, gói
dịch vụ được phát hành vào tháng 12 năm 1995.
Windows 98
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó
(1998), là một thay đổi mang tính cách mạng so với phiên bản trước đó.
Diện mạo bên ngoài của nó đẹp hơn Windows 95 khá nhiều, và thậm chí nó
còn có nhiều cải thiện hữu dụng bên trong. Những cải thiện ở đây như sự
hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối mạng và hệ thống file FAT32, tuy tất cả
đều những cải thiện này rất đáng giá nhưng không làm cho cả thế giới
choáng ngợp như lần ra mắt của Windows 95.
Microsoft đã phát hành phiên bản nâng cấp "Second
Edition" của Windows 98 vào năm 1999. Phiên bản này có ít những thay
đổi đáng chú ý mà chỉ có hầu hết các bản vá lỗi.
Windows Me
Microsoft phát hành phiên bản Windows Millennium
edition vào năm 2000. Windows Me, có lẽ là lỗi lớn nhất của Microsoft,
một nâng cấp thứ yếu với rất nhiều lỗi thay vì sửa các lỗi trước đó.
Trong phiên bản mới này, Microsoft đã nâng cấp các tính năng Internet
và multimedia của Windows 98, bổ sung thêm ứng dụng Windows Movie
Maker, giới thiệu tiện ích System Restore – tất cả đều là những ứng
dụng tốt. Tuy nhiên điều đáng chú ý nhất trong Windows Me đó là hiện
tượng dễ đổ vỡ và hệ thống dễ bị treo. Nguyên nhân này đã làm cho nhiều
khách hàng và các doanh nghiệp bỏ qua toàn bộ nâng cấp này.
Windows 2000
Được phát hành gần như đồng thời với phát hành dành
cho khách hàng Windows Me, Windows 2000 là một nâng cấp thành công cho
khối doanh nghiệp của Microsoft. Kế vị ngay sau Windows NT, Windows
2000 là một sự tiến hóa từ nền tảng cơ bản NT, và vẫn nhắm đến thị
trường doanh nghiệp.
Hình 9: Windows 2000 – kẻ kế nhiệm cho Windows NT cho thị trường doanh nghiệp
Không giống như NT, Windows 2000 có hai phiên bản
(Workstation và Server), Windows 2000 có đến 5 phiên bản khác nhau:
Professional, Server, Advanced Server, Datacenter Server và Small
Business Server. Tất cả các phiên bản đều kết hợp chặt chẽ các tính
năng từ Windows 95/98 và tạo nên một giao diện đẹp mắt và tinh tế.
Windows XP
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của
Windows đã được nhập thành một với phát hành năm 2001 của Windows XP.
Đây là phiên bản đầu tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy trong dòng doanh
nghiệp ra thị trường khách hàng – và đưa sự thân thiện vào thị trường
doanh nghiệp. XP có sự pha trộng tốt nhất giữa các phiên bản Windows
95/98/Me với thao tác 32-bit của Windows NT/2000 và giao diện người
dùng được tân trang lại. Về bản chất có thể cho rằng XP là kết hợp giao
diện của Windows 95/98/Me vào NT/2000 core, bỏ qua cơ sở mã DOS đã xuất
hiện trong các phiên bản khách hàng trước của Windows.
Hình 10: Giao diện thân thiện hơn của Windows XP
Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị
trường bằng một số phiên bản khác nhau, mỗi một phiên bản lại có một
tập các tính năng riêng biệt. Các phiên bản khác nhau được phân khúc ở
đây gồm có: XP Home Edition, XP Professional (cho người dùng khối doanh
nghiệp), XP Media Center Edition, XP Tablet PC Edition, và XP Starter
Edition (cho người dùng trong các nước đang phát triển). Tuy nhiều
người dùng cảm thấy lộn xộn về sự phân khúc này, nhưng Microsoft dường
như lại không quan tâm đến điều đó.
Từ quan điểm của người dùng, XP là một phiên bản đẹp
hơn, nhanh hơn so với các phiên bản trước đó Windows 95/98 hoặc Windows
2000. (Nó cũng có độ tin cậy cao hơn so với hệ điều hành Windows Me
thất bại trước đó). Giao diện Luna cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện
hơn, tính năng Fast User Switching cho phép cùng một máy có thể được
chia sẻ dễ dàng với những người dùng khác.
Windows Vista
Được phát hành năm 2007, phiên bản Windows này đã
phát triển các tính năng của XP và bổ sung thêm sự bảo mật và độ tin
cậy, chức năng truyền thông số được cải thiện và giao diện đồ họa người
dùng Aero 3D đẹp mắt.
Hình 11: Giao diện Aero của Windows Vista
Chúng ta hãy bắt đầu với giao diện, để chạy được
giao diện nâng cao này đòi hỏi các máy tính phải có cấu hình cao, chính
vì lý do này mà Vista bị hạn chế khả năng nâng cấp từ nhiều máy tính
cũ. Giao diện Aero hiển thị các thành phần 3D gần như trong suốt và
đường bao cửa sổ kiểu kính, bên cạnh đó còn nhiều thứ trong Vista cũng
rất khác biệt.
Các biểu tượng thư mục và file hiển thị bằng các
thumbnail nội dung của chúng. Khi bạn chuyển giữa các ứng dụng đang mở,
Windows sẽ cuộn và xoay vòng để hiển thị theo ngăn xếp 3D. Các cửa sổ
trông uyển chuyển hơn, tròn trịa hơn và có tính mờ đục, tăng cảm giác
sâu khi bạn xem nhiều cửa sổ trên màn hình. Bên cạnh đó còn có một
Sidebar để giữ các Gadget, các ứng dụng nhỏ chuyên dụng cho một nhiệm
vụ nào đó.
Bên trong, Vista được thiết kế để chạy an toàn và
tráng kiện hơn Windows XP. Tuy nhiên một trong những tính năng bảo mật
– người dùng phàn nàn nhiều – là User Account Control, tính năng này
góp phần vào làm gián đoạn các hoạt động thông thường của người dùng.
Dự định thì tốt (nhằm ngăn chặn không cho truy cập trái phép vào hệ
thống), tuy nhiên khi thực thi thì chương trình lại làm cho người dùng
tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ đòi hỏi sự cho phép xuất hiện quá
nhiều.
Thậm chí tồi tệ hơn, nhiều người dùng gặp phải các
vấn đề trong việc nâng cấp thiết bị cũ lên Vista. Nhiều thiết bị ngoại
vi cũ không có driver tương thích với Vista (đây có thể coi là một vấn
đề với bất cứ nâng cấp Windows nào), tuy nhiên có một số chương trình
chạy trên XP không thể làm việc đúng cách trong môi trường Vista.
Chắc hẳn từ những yếu tố không thành công trên của
Windows Vista mà Microsoft đã bắt tay vào để phát triển kẻ kế nhiệm cho
Vista ngay lập tức – Windows 7 sắp được phát hành.
Windows 7
Phiên bản mới nhất của Windows dự kiến được phát
hành vào tháng 10 năm 2009. Đó là quãng thời gian hai năm ngắn ngủ sau
khi phát hành Windows Vista, điều đó cũng có nghĩa rằng nó không phải
một nâng cấp chủ đạo (không đủ thời gian).
Thay vì đó chúng ta có thể nghĩ về Windows 7 với
Windows Vista giống như mối quan hệ của Windows 98 với Windows 95. Nó
chỉ là một phát hành thứ yếu, giống một gói dịch vụ hơn là một nâng cấp
quy mô lớn.
Hình 12: Taskbar mới trong Windows 7
Vậy có những gì thay đổi trong Windows 7? Đầu tiên,
phát hành này sẽ thay đổi những gì mà người dùng không thích trong
Windows Vista. Phần cứng cũ và phần mềm cũ tương thích nhiều hơn, và
thậm chí còn có cả tính năng Windows XP Mode cho phép chạy các ứng dụng
trong thời đại XP trong môi trường nguyên bản của Windows 7. User
Account Control cũng được cải thiện nhiều hơn để giảm bớt sự gián đoạn
gây khó chịu đối với người dùng.
Tiếp đến, Windows 7 còn có một số thay đổi về mặt
giao diện. Sidebar bị bỏ đi và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget
trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế độ Aero Peek mới cho phép bạn
nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy những gì bên dưới desktop,
cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép bạn dễ dàng di chuyển và
cực đại hóa các cửa sổ.
Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar,
một dải cố định trên màn hình xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95.
Taskbar mới trong Windows 7 cho phép bạn dock (neo đậu) cả
các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa thích của bạn. Kích
chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump List các tài
liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút taskbar,
bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả các tài
liệu. Có thể nói Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ,
tuy nhiên được nhiều người nhận định là những cách mang tính tích cực.
Phát hành Windows 7 sắp tới đã kết thúc lịch sử của
Windows cho đến thời điểm này. Tuy nhiên các chuyên gia phát triển của
Microsoft vẫn đang làm việc trên các phiên bản mới của hệ điều hành
lõi, và vì vậy chúng ta vẫn có thể mong đợi những điều thú vị sẽ xuất
hiện trong một tương lai gần. Và Windows sẽ không bao giờ ngừng phát
triển.
|