Việc
cài đặt phần mềm trên hệ điều hành Linux không như trên các hệ điều
hành khác. Dưới đây là 10 lỗi cần tránh khi cài đặt phần mềm trên hệ
điều hành Linux.
1. Thực hiện cài đặt từ nguồn khi hệ thống có nền tảng .rpm hay .deb
Nhiều người mới dùng Linux không biết rằng cả
rpm và
apt (hay
dkpg) đều theo dõi mọi phần mềm được cài đặt trên hệ thống. Tuy nhiên, những hệ thống này (r
pm, apt và
dkpg)
chỉ có thể theo dõi những phần mềm mà chúng cài đặt. Vì vậy khi bạn
thấy một phần mềm không rõ ràng chỉ được lưu ở nguồn và bạn tự hiệu
chỉnh nó thì hệ thống quản lý phần mềm sẽ không theo dõi được nó. Thay
vào đó, bạn chỉ cần tạo một file
.rpm hay
.deb từ nguồn và cài đặt với hệ thống quản lý phần mềm, hệ thống có thể theo dõi mọi phần mềm được cài đặt.
2. Không chú ý tới nhóm ứng dụng quản lý phần mềm đồ họa ngoại vi
Hầu hết người dùng thậm chí không biết ra rằng có nhiều thiết bị đồ họa
ngoại vi còn thực hiện đánh giá ngoài việc cài đặt phần mềm trong
Linux. Với lệnh
yum (một dòng lệnh của hệ thống quản lý phần mềm đối với
rpm), bạn có thể sử dụng
Yumex cho
yum (được cài đặt cùng với
yum install yumex), sử dụng
Synaptic hay
Adept cho
apt (được cài đặt với
apt-get install synaptic hay
apt-get install adept).
3. Không cập nhật danh sách phần mềm hiện có thường xuyên
Khi sử dụng
apt-get hay yum, chắc chắn rằng bạn đã cập
nhật danh sách phần mềm hiện có, nếu không hệ thống của bạn sẽ không
cập nhật được những phần mềm mới được cài đặt. Dùng lệnh
apt-get update để cập nhật với
apt-get, và dùng lệnh
yum check-update để thực hiện cập nhật với
yum.
4. Không bổ sung vùng lưu trữ cho yum hay apt-get
Cả
yum và
apt-get sử dụng danh sách vùng lưu
trữ cho biết vị trí những phần mềm hiện có được lưu trữ. Nhưng vùng lưu
trữ mặc định (thường được gọi là
repos) không bao gồm những phần mềm Linux quen thuộc với
Linuxkind. Vì thế nếu bạn thực hiện cài đặt một chương trình thì
yum (hay
apt-get) sẽ không thể tìm thấy phần mềm đó, rất có thể bạn sẽ phải bổ sung một vùng lưu trữ vào danh sách nguồn.
Đối với
yum, những nguồn đó nằm trong file
/etc/yum.conf. Còn nguồn của
apt-get nằm trong file
/etc/apt/sources.list. Sau khi bổ sung một vùng lưu trữ mới, bạn phải thực hiện cập nhật để
apt hay
rpm nhận biết được vùng mới này.
5. Không thực hiện cài đặt nhanh từ một trình duyệt
Giống như hệ điều hành Windows, khi nhận thấy người dùng đang cố gắng
tải về một ứng dụng có thể cài đặt, hệ thống sẽ hỏi xem có muốn hệ
thống quản lý phần mềm thực hiện cài đặt file không hay chỉ lưu file
vào ổ đĩa. Trong cả hai trường hợp này, hệ thống sẽ yêu cầu bạn nhập
mật khẩu gốc (vì thế bạn phải có quyền truy cập để hệ thống tiếp tục
làm việc). Phương pháp này khá hữu dụng (thực hiện với hệ thống nền
tảng
yum hay
dpkg) vì nó giúp cho việc định vị và bổ sung các thành phần phụ.
Thông thường, phương pháp này chỉ thực hiện được khi bạn đang tải một
file tương thích với hệ thống. Nếu bạn cố gắng tải một file
rpm trên một hệ thống nền tảng
Debian,
thì bạn sẽ không có tùy chọn thực hiện cài đặt file. Tuy nhiên bạn cũng
có thể thực hiện cài đặt nhanh bằng cách lựa chọn hộp chọn
Always Do This …
trong phần popup của Firefox để mỗi lần bạn tải về một file cùng với hệ
thống quản lý phần mềm nó sẽ tự động yêu cầu mật khẩu gốc và tiếp tục
thực hiện cài đặt.
6. Quên dòng lệnh
Giả sử bạn đã cài đặt một máy chủ sử dụng
Ubuntu hay
Debian
(một cài đặt phổ biến cho những máy chủ Linux) và chưa cài đặt giao
diện đồ họa và màn hình. Để thực hiện bảo trì, bạn phải đăng nhập thông
qua
ssh (thường là như vậy) và bị giới hạn thực hiện lệnh. Dù
vậy thì khả năng giữ cho hệ thống luôn ở trạng thái được cập nhật hay
cài đặt những ứng dụng mới cũng không bị giới hạn. Bạn vẫn có thể dùng
lệnh
yum hay
apt-get để quản lý phần mềm.
Đối với hệ thống nền tảng
Debian, bạn có một lựa chọn khác đó là
aptitude. Từ dòng lệnh, nhập lệnh
aptitude và bạn sẽ thấy một giao diện khác hẳn so với
apt.
Hệ thống này rất dễ sử dụng và cung cấp cho bạn những tùy chọn cho phép
duy trì một máy chủ không có giao diện đồ họa mà không làm mất đi chức
năng nào.
Aptitude liệt kê những bản cập nhật bảo mật, phần
mềm có thể nâng cấp, phần mềm mới, phần mềm không được cài đặt, phần
mềm không dùng được, phần mềm ảo và tác vụ. Khi kiểm tra trong danh
sách, bạn không chỉ thấy những phần mềm đã được cài đặt và số lượng
những phần mềm mới mà còn có một bản mô tả của mỗi phần mềm. Sau khi sử
dụng
aptitude, bạn sẽ thấy việc cập nhật phần mềm tron Linux đơn giản như thế nào, thậm chí là từ dòng lệnh thực hiện cập nhật.
7. Không chú ý khi giải nén file tar
Rất nhiều lần bạn thực hiện tải một phần mềm, và ngay lập tức giải nén
mà không quan tâm tới nội dung của nó. Thông thường thì việc này không
có vấn đề gì. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp người tạo file nén/người
bảo dưỡng file đã không cho biết toàn bộ nội dung của gói hiện không
được lưu trữ trong một thư mục chính hay không. Do đó, thay vì tạo ra
một thư mục mới chứa những nội dung của file nén (có thể gồm có hàng
trăm file hay thư mục), thì những file này lại bị bung ra trong thư mục
bạn giải nén chúng vào đó.
Để tránh điều này, bạn cần tạo một thư mục tạm thời và di chuyển file
nén vào đó. Sau đó, khi giải nén, cho dù file nén có nằm trong một thư
mục chính hay không thì cũng không đáng lo ngại. Phương pháp này sẽ
giúp bạn tiết kiệm được nhiều thời gian dọn dẹp trong những trường hợp
tương tự khi mà người tạo file nén không đưa tất cả các file vào một
chung một thư mục.
8. Xóa file Makefile
Khi đang cài đặt từ nguồn, bạn có thể sẽ chạy
make clean để xóa bỏ những file nguồn không cần thiết. Tuy nhiên nếu bạn xóa bỏ file
Makefile thì việc gỡ bỏ không hề dễ dàng. Nếu bạn giữ nó lại, bạn có thể thường xuyên gỡ bỏ những chương trình bằng cách dùng lệnh
make uninstall từ thư mục chứa file
Makefile.
Chú ý: Không được đặt tất cả các file
Makefle
vào trong một thu mục. Trước tiên cần đổi tên chúng để biết chúng thuộc
về chương trình nào. Khi bạn muốn gỡ bỏ chương trình đó, di chuyển file
Makefile sang thư mục khác, đổi lại sang tên cũ và sau đó chạy lệnh
uninstall. Sau khi đã gỡ bỏ được chương trình bạn có thể xóa file
Makefile của chương trình đó.
9. Cài đặt sai cấu trúc
Bạn có thể thấy rằng nhiều file
rpm sẽ có cấu trúc i386, i586. I686, PPC, 64, … Đó là vì nếu trong tên file
rpm không có từ
“noarch”
thì file đó được tạo cho một cấu trúc cụ thể, và khi những file này
được tạo ra cho cấu trúc đó thì chúng đã được tùy chỉnh cho phù hợp để
chạy tốt hơn. Điều đó có nghĩa là không thể cài đặt một file cấu trúc
i586 trên máy chuẩn 386? Tất nhiên là có. Tuy nhiên nó sẽ không chạy
hiệu quả như trên cấu trúc chỉ định. Nhưng, hiện giờ bạn không thể cài
đặt một file
rpm cấu trúc PPC trên cấu trúc x86 vì cấu trúc
PPC dành cho bộ chip Motorola. Và bạn cũng không thể cài đặt file cấu
trúc 64 bit trên cấu trúc 32 bit. Ngược lại, bạn có thể cài đặt file
cấu trúc 32 bit trên cấu trúc 64 bit (như trong trường hợp bạn muốn
Firefox chạy với Flash trên máy cấu trúc 64 bit).
10. Không xác đinh được lỗi khi cập nhật kernel
Thông thường việc cập nhật các kernel là một nhiêm vụ của chuyên viên
máy tính. Tuy nhiên với hệ thống quản lý gói, bất cứ ai cũng có thể cập
nhật
kernel. Nhưng cũng có một số vấn đề bạn cần biết. Thứ nhất đó là dung lượng bộ nhớ. Khi tiến hành cập nhật
kernel, kernel cũ luôn được giữ lại. Nếu bạn liên tục cập nhật
kernel, bộ nhớ hệ thống có thể bị đầy rất nhanh. Vì vậy tốt nhất bạn nên kiểm tra xem những
kernel cũ nào có thể xóa bỏ được. Nếu bạn sử dụng
rpm, chỉ cần dùng lệnh
rpm –qa|grep kernel để kiểm tra bạn đã cài đặt những gì. Bạn có thể gỡ bỏ tất cả ngoại trừ hai
kernel được cài đặt cuối cùng. Tốt nhất bạn nên giữ lại hai
kernel này phòng trường hợp
kernel bạn đang dùng bị lỗi.
Một vấn đề khác có liên quan tới driver của NDIVIA. Nếu bạn sử dụng kho chứa
livna, bạn sẽ có cảm giác bị kẹt trong
kernel livna. Vì vậy, trước tiên cần tiến hành cập nhật
kernel sau đó tải và cài đặt driver của NVIDIA tương thích với
kernel đó. Khi đó hệ thống sẽ yêu cầu bạn tìm đúng file
rpm cho driver của NVIDIA, nhưng nó sẽ buộc bạn phải sử dụng
kernel livna. Có thể bạn đã từng bị kẹt trong hệ thống này và gặp phải những vấn đề về video/kernel bị cô lập với file
livna. Nếu đang sử dụng hệ thống
Ubuntu, bạn có thể tránh những tình huống này bằng cách sử dụng
Envy. Nhóm công cụ này sẽ giúp bạn cài đặt driver NVIDIA tốt nhất mà không làm ảnh hưởng tới
kernel yêu thích của bạn. Sau khi
kernel
được nâng cấp bạn cần khởi động lại máy tính. Đó là lần duy nhất bạn
phải khởi động lại máy Linux. Mặc dù bạn không khởi động lại thì máy
của bạn vẫn hoạt động bình thường, nhưng nó hoạt động nhờ vào
kernel cũ không có các tính năng mới và các biện pháp tăng cường bảo mật (và nhiều tính năng mới bổ sung khác).